
Chiều 19/3 âm lịch, dân làng tổ chức Tế lễ tại Bến Nghinh và Đình Danh Hựu. Sau đó rước kiệu từ Đình Danh Hựu về Đền thờ Lý Nam Đế
Lý Bí (còn có tên gọi là Lý Bôn) sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (tức ngày 17 tháng 10 năm 503). Quê hương của ông tại Thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên (Hội thảo Khoa học - Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của Vua Lý Nam Đế được tổ chức tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội tháng 12 năm 2012. Từ nhỏ Lý Bí đã tỏ ra là một cậu bé rất thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì Cha mất; 7 tuổi thì Mẹ mất. Ông đến ở với chú ruột, một hôm có một vị Pháp tổ thiền sư đi ngang qua trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú liền xin Lý Bí đem về Chùa nuôi dạy. Sau hơn 10 năm đèn sách chuyên cần, Lý Bí đã trở thành một người học rộng, hiểu sâu. Nhờ có tài văn võ kiêm toàn Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương. Ông được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức Châu (huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh ngày nay). Thứ sử Giao Châu là Vũ Lâm hầu Tiêu Tư hà khắc tàn bạo nên mất lòng người, lại do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác. Lý Bí đã bỏ quan, về quê, chiêu binh, mãi mã chống lại chính quyền đô hộ.
Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí càng lớn mạnh. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Dương) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, phục tài đức của Ông nên đã đem quân nhập với đạo quân của ông ông. Tinh Thiều, một người giỏi từ chương, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan nhưng chỉ cho chức quan “gác cổng thành” nên đã bỏ về Giao Châu theo Lý Bí, ngoài ra trong lực lượng của ông còn có một võ tướng là Phạm Tu đã ngoài 60 tuổi.
Căm thù giặc Lương tàn bạo, ông đã triệu tập nhân dân cùng các hào kiệt nổi dậy chống lại quân Lương từ năm 541 đến cuối năm 542. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược, đến tháng Giêng năm 544 Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế (nhà Tiền Lý), lên ngôi đặt niên hiệu là Thiên đức (đức trời), lập trăm quan, đặt tên nước ta là Vạn Xuân thể hiện mong muốn rằng xã tắc truyền đến muôn đời. Đóng đô đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, TP Hà Nội). Ông dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội, thành lập triều đình với hai ban văn, võ. Lấy Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ.
Nhà nước Vạn Xuân xây dựng chưa được bao lâu thì vào khoảng tháng 6 năm 545, nhà Lương lại đem đại binh tấn công sang nước ta. Sau nhiều lần kịch chiến với quân Lương ở Chu Diên (Hải Hưng), Tô Lịch (Hà Nội), Gia Ninh (Bạch Hạc), đầu năm 546 Lý Nam Đế đưa quân vào Động Khuất Lão (Tam Nông, Phú Thọ) để củng cố lực lượng. Tháng 10 năm 546, Ông kéo 2 vạn quân ra hồ Điển Triệt (Lập Thạch) lập thủy trại. Tại đây, sau một đêm nước sông dâng lên cao 7 thước tràn đổ vào hồ. quân của Trần Bá Tiên theo dòng nước chảy tiến vào, quân của Lý Nam Đế không phòng bị đã bị tan vỡ. Lúc đó nhà Vua phải vượt sông Thao chạy về động Khuất Lão, ông trao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục. Năm 548, Lý Nam Đế ốm nặng rồi mất tại động Khuất Lão.
Viết về cuộc kháng chiến chống quân Lương của nhà Tiền Lý, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có ghi:
“Bính Dần năm thứ ba, mùa xuân, tháng giêng, bọn Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh. Vua chạy vào đất người Lão ở Tân Xương. Quân nước Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh. Mùa thu tháng 8, Vua lại đem 2 vạn quân từ trong đất người Lão ra đóng ở hồ Điển Triệt. Đóng rất nhiều thuyền chật cả trong hồ. Quân Lương đóng ở cửa hồ, ngại không dám vào. Đêm hôm ấy, nước sông dâng mạnh, cao bảy thước rót vào hồ. Bá Tiên đem quân của mình theo dòng nước tiến vào. Quân Lương đánh trống, reo hò mà tiến, Vua không phòng bị nên tan vỡ, lui giữ ở trong động Khuất Lão. Mậu Thìn năm thứ một (548), mùa xuân, tháng ba, ngày Tân Hợi, Lý Nam Đế lâu ngày, nhiễm lam chướng, ốm chết”.
Tại cuốn sách “Lịch sử Việt nam từ nguồn gốc đến thế kỷ X” - NXB Đại học sư phạm Hà Nội - 2003, có ghi chép về cuộc khởi nghĩa của Lý Bí như sau:
“Trong một lần đánh nhau với quân Lương, Lý Bí lại phải lui quân về thành Gia Ninh (Bạch Hạc). Được sự phối hợp của quân Dương Phiêu, Trần Bá Tiên đã đánh chiếm được thành. Đầu năm 546, Lý Nam Đế chạy vào động Khuất Lão ở Phú Thọ củng cố lực lượng. Sau một thời gian bổ xung quân số, tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế kéo 2 vạn quân ra đóng ở hồ Điển Triệt (xã Yên Lập, Lập Thạch, Vĩnh Phúc). Tại đây, quân nhà Tiền Lý lại bại trận trước một cuộc tấn công lớn, một lực lượng áp đảo của quân Lương. Lý Nam Đế phải vượt sông Thao, chạy về động Khuất Lão (Tam Nông, Phú Thọ) và giao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục là một tướng trẻ có tài năng”. (trang 119, 120).
Trong cuộc kháng chiến chống quân Lương xâm lược, Lý Nam Đế đã chọn động Khuất Lão để củng cố, xây dựng phát triển lực lượng kháng chiến, đây cũng là căn cứ cuối cùng của Lý Bí và triều đình Vạn Xuân. Nơi này cũng chứng kiến những hoạt động và những ngày cuối đời của Lý Nam Đế (546 - 548) - vị Hoàng Đế đầu tiên của nước Việt.
Động Khất Lão từ năm 1955 thuộc địa giới hành chính xã Văn Lang (Văn Lương) xưa, xã Vạn Xuân ngày nay, với nhiều tên gọi: Khuất Lão, Khuất Liêu, Tam Khu, Liên Hoa, Gò Cổ Bồng, Gò Cấm, tương truyền đây là nơi chôn cất thi hài của Vua Lý Nam Đế cho nên cũng gọi là Khu Lăng…Động Khuất Lão nằm ở Hữu ngạn sông Hồng, cách sông khoảng 500m. Là khu đồi nhỏ hình đài sen ba cánh xòe ra: cánh thứ nhất hướng Bắc, cánh thứ hai hướng Đông, cánh thứ ba hướng Nam, cuống hoa cắm vào dải Rừng Cấm. Ba mặt Bắc, Đông, Nam được bao bọc bởi 115 mẫu ruộng chiêm quanh năm ngập nước, nguyên trước đây vẫn gọi là Vụng Xưa hay Vụng Ba Triệu. Về sau do phù sa sông Thao bồi đắp, tạo thành xứ đồng Chằm, hố Náp, hố Ao, hố Ấu, hố Hang Hùm…
Quan sát và đặt động Khuất Lão trong thực tế chống quân Lương của Lý Bí thế kỉ VI, thấy rằng, đây là một căn cứ quân sự lí tưởng theo truyền thống của binh pháp cổ: “phía trước sáng, phía sau tối, phía trước có sông nước, phía sau có đường vận lương thảo”. Ba mặt Đông, Nam, Bắc của động là đồng nước mênh mông, phía Tây Bắc là dải Rừng Cấm rậm rạp um tùm, tạo nên bức tường thành tự nhiên che chắn cho khu căn cứ. Rừng Cấm từ xưa đến nay vẫn thâm nghiêm, bí hiểm, linh thiêng đối với người dân Văn Lang. Cũng có thể đây là khu vực “Cấm Thành” để bảo vệ cho nhà vua và nghĩa quân ở động Khuất Lão. Nhìn xa hơn nữa, khu căn cứ này còn được bao bọc bởi các con sông lớn: phía Đông là sông Thao, phía Nam là sông Đà, phía Bắc là sông Bứa, tạo thành chướng ngại tự nhiên để chặn các hướng tiến công của quân Lương từ Long Biên lên, từ Gia Ninh sang và từ phía Bắc xuống. Từ động có thể quan sát, bao quát và khống chế một vùng rộng lớn tới tận thành Gia Ninh và khu vực ngã ba sông (sông Hồng, sông Lô, sông Đà).
Động Khuất Lão chỉ có một đường độc đạo duy nhất vào căn cứ, đó là con đường từ phía Tây qua làng Cổ Tiết, qua Đính Trại - nơi các trại nghĩa quân của Vua Lý Nam Đế đóng để bảo vệ con đường huyết mạch không cho ai lạ mặt vào Động. Ở Đính Trại (cách động từ 300m đến 800m) có 8 chiếc ao cổ do con người đào (hiện nay vẫn còn dấu tích), vừa là hào lũy vừa là nơi cấp nước sinh hoạt cho quân sĩ. Tiếp đến để đi vào Động, phải qua Khe hố Nhà Phan - một khe nhỏ, dốc dựng đứng, sâu gần 20m, rất rậm rạp và chỉ từng người mới lách qua được. Qua khe đó muốn đến khu vực trung tâm của Động Khuất Lão - nơi đóng đại bản doanh của Vua Lý Nam Đế; và còn phải qua một khe hẹp khác, một bên là hố Ao, một bên là hố Ấu mới tới gò Cổ Bồng. Những tên gọi Ao Quan, Đính Trại, Rừng Cấm, Tam Khu, Khu Lăng…đều gắn với dịa danh Động Khuất Lão cùng với cuộc khởi nghĩa của Vua Lý Nam Đế.
Thật là một căn cứ hiểm yếu, tiến có thể đánh về vùng châu thổ sông Hồng, lui có thể giữ gìn, bảo toàn lực lượng.
Nơi đây trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương, Lý Nam Đế đã 2 lần lui quân về động Khuất Lão. Lần thứ nhất vào cuối tháng 2 năm 546, sau khi thành Gia Ninh bị vỡ, nhà Vua lui về đây để củng cố xây dựng lực lượng. Nơi này địa thế hiểm yếu, dân cư khá đông, có điều kiện để cung cấp nhân tài, vật lực cho cuộc kháng chiến, nên chỉ sau một thời gian, nghĩa quân đã tập hợp được lực lượng đông đảo. Đếm tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế đem 2 vạn quân ra đóng ở hồ Điển Triệt, lập thủy trại để kháng chiến chống quân xâm lược. Điều đó làm cho quân Lương sợ hãi, dao động không dám vào. Lần thứ hai khi thế trận ở hồ Điển Triệt bị vỡ trước sự tấn công ồ ạt của Bá Tiên, Lý Nam Đế rút quân về Động Khuất Lão, trao binh quyền cho Triệu Quang Phục - một tướng trẻ tài năng cầm quân, tiếp tục kháng chiến, còn nhà Vua sống những ngày cuối đời ở đây.
Động Khuất Lão với vị trí hiểm yếu, tiện lợi, nó không chỉ là căn cứ của Vua Lý Nam Đế trong cuộc kháng chiến chống quân Lương, mà qua các truyền thuyết dân gian, thì nơi đây còn là nơi trung chuyển lương thảo giữa ba vùng thượng nguồn sông Lô, hạ nguồn sông Chảy và kinh đô Văn Lang trong cuộc chiến tranh Hùng - Thục. Đến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, động Khuất Lão vừa là kho quân lương, kho lương thảo, vừa là nơi chiêu tập và huấn luyện quân sĩ. Mảnh đất Văn Lang gắn liền với tên tổi các tướng của Hai Bà Trưng như: Xuân Nương Công Chúa, Thiều Hoa Công Chúa. Hai tướng này thường cùng Thi Bằng (em trai Thi Sách, sau này là chồng của Xuân Nương) đưa voi từ miền rừng núi Thanh Sơn ra đây thuần dưỡng và huấn luyện, phục vụ cho cuộc chiến tranh giành độc lập của dân tộc. Các tên làng Tự Cường, Nam Cường, Phú Cường, Phụ Cường, Thanh Uyên… đều gắn liền với kì tích của nghĩa quân. Những tên đất, tên làng ở đây cũng thể hiện tinh thần, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, linh hồn của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và của Vua Lý Nam Đế.

Lăng mộ Đức Vua Lý Nam Đế
Với tâm linh tôn kính và biết ơn những người có công với dân với nước, từ xưa, nhân dân đã dựng ngôi Đình và một Đền, Điện Mộ thờ trên gò Cổ Bồng và Động Khất Lão để thờ Lý Nam Đế, Lý Thiên Bảo (anh ruột của Lý Bí), Lý Phật Tử (người trong dòng họ), những người cùng Lý Bí khởi nghiệp và hai thủy thần là Long Hải Vương và Lân Hải Vương đã có công giúp ông và tướng sỹ vượt sông Thao (theo truyền thuyết, khi Lý Nam Đế chạy đến tả ngạn sông Thao gặp nước lớn, không có thuyền mảng vượt sông, phía sau là quân Lương truy đuổi, tình thế vô cùng nguy khốn. Giữa lúc nguy hiểm đó, thủy thần xuất hiện và giúp Lý Nam Đế cùng tướng sỹ vượt qua sông lớn, thoát khỏi sự truy đuổi của quân giặc).
Phía bên phải Đền, khi xưa có Lăng vua dưới gốc cây xương rồng bà, lăng vua xây gạch như mộ thường. Trước đây mọi nghi lễ cầu cúng đều được tiến hành ở Đình, Đền và Lăng trên gò Cổ Bồng.
Các tục hèm thờ cúng tại Đền thờ Vua Lý Nam Đế ở Động Khuất Lão cũng rất phong phú. Một năm có 4 kỳ cầu:
- Từ mùng 2 đến mùng 7 tháng Giêng: tục truyền kỉ niệm ngày khởi nghĩa của Lý Bí.
- Ngày 12 - 3: Kỷ niệm ngày Vua lên ngôi.
- Ngày 20 - 3 (ÂL): Kỷ niệm ngày Vua Mất.
- Ngày 12 - 9: Kỷ niệm ngày Vua sinh.
Trong các kỳ cầu, lễ tháng Giêng là lớn nhất, đông vui nhất và có nhiều trò chơi vui khỏe, khéo léo mang tính chất hội làng vào dịp đầu xuân. Các nghi lễ và trò chơi trong dịp đầu xuân để ghi nhớ, mô phỏng các chiến công của các bậc tiền bối trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Các trai làng rước kiệu về Đền thờ Lý Nam Đế
Để chuẩn bị cho lễ hội, ngay từ trong năm, nhân dân đã phải chuẩn bị trâu, lợn, bột bánh, hoa quả, giặt tán, lọng, áo mão, sơn lại kiệu, chỉnh trang các đồ dùng tế lễ…Trai tráng phân chia nhau lo chuẩn bị sân đấu vật, lo cắt cử người đi mời dân nước nghĩa ở Phiên Quận (Cẩm Khê) sang năm mới về dự hội xuân. Đến dịp tổ chức, mọi người tập trung ở đình làng, lựa chọn một số người khiêng kiệu đi trước, dân làng theo sau, đến đình, đền Diên Hựu tại động Khuất Lão rồi làm lễ cầu vua và hai vị Thiên Bảo, Phật Tử lên kiệu rước về đình làng dự lễ hội. Đồng thời mọi người cũng đem kiệu ra bờ sông Thao mời hai vị thần Long Hải Vương và Lân Hải Vương lên kiệu, rước từ bờ sông về dự hội xuân với dân làng. Sau khi đã rước đủ năm vị, lễ cúng tại đình mới bắt đầu. Trước tiên là cúng vua Lý Nam Đế theo nghi lễ rất trang nghiêm:
Trên năm chéo lọng vàng cờ đỏ
Dưới hai hàng văn võ chầu sang
Tiếp đến là khấn cầu bốn vị công thần, sau cùng mới đến các tướng sỹ của nhà vua. Vật phẩm cầu cúng gồm: bánh dày, bánh rán, bánh mật, chè lam, chè kho, hoa quả… Cỗ bàn cầu cúng được chia làm 3 nơi: thượng cung xếp 5 mâm cho vua và 4 vị phối thưởng; hạ đàn đặt 7 mâm cho các tướng; ngoài sân đặt 9 đến 10 mâm cho quân sỹ. Thế rồi các trò chơi tung nõ - nường, cướp vĩ, đấu vật, ném cầu được tiến hành, kéo dài từ mồng 5 đến mồng 7 tháng Giêng, đặc biệt lễ cầu mồng 7 tháng Giêng luôn có đại biểu nước nghĩa đến dự.
Hiện nay, tại trung tâm động Khuất Lão còn rất nhiều dấu tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Vua Lý Nam Đế.
Được sự đồng ý của tỉnh Phú Thọ, huyện Tam Nông đã tiến hành phục hồi xây dựng lại Đền thờ Vua Lý Nam Đế cùng Điện Mộ của Vua tại Gò Cổ Bồng xã Vạn Xuân (từ năm 2010) nhằm tôn vinh vị Hoàng Đế đầu tiên của dân tộc, xứng tầm với ý nghĩa vốn có của di tích, đồng thời cũng đáp ứng được nguyện vọng của Nhân dân xã Vạn Xuân nói riêng, Nhân dân huyện Tam Nông và khắp mọi miền đất nước nói chung về tham quan du lịch, chiêm bái./.
Hải Đăng (St)