PHẦN THỨ NHẤT = HÌNH THỂ
1/ Địa thế đại cương:
Tỉnh Hưng Hóa giống một hình năm góc không đều cạnh, kéo dài từ Tây sang Bắc sang ĐôngNam, có một góc lồi khá lớn ở phíaNam. Vùng này là vùng chuyển tiếp giữa đồng bằng với thượng du. Mặt đất thường lồi lõm, nhiều đồi gò, có ngọn đồi rất cao, cây cối rậm rạp. Dọc sông Hồng và sông Lô có nhiều cánh đồng rộng, rộng nhất ở quãng hợp lưu của hai con sông này, trong huyện Lâm Thao màu mỡ huyện này thực tế là đồng bằng kéo dài lên.
Do địa hình mấp mô, thật khó mà tính được, dù chỉ là ước lượng, diện tích tỉnh Hưng Hóa. Chưa tiến hành được một công trình đo đạc nào, và có lẽ cũng còn lâu mới tiến hành được vì trong tỉnh còn 2/3 đất đai chưa sử dụng đến và vì những khó khăn to lớn mà công việc đo đạc vấp phải.
Cứ theo đường kính dài nhất thì từ phía Bắc xuống Đông Nam tỉnh Hưng Hóa có chiều dài gần 120km; từ Bắc xuống Tây Nam có chiều rộng 90km.
Ta gặp trong thung lũng sông Hồng nhiều đầm, hồ; những đầm, hồ này chắc chắn là vết tích của dòng chảy trước kia của sông Hồng; một vài hồ đó, về mùa đông, cạn bớt nước và có thể cấy được một phần diện tích.
2/ Địa giới tỉnh Hưng Hóa:
- Về phía Tây, là sông Lô và sông Đà.
- Về phía Bắc, là đạo quan binh số 3 (Tuyên Quang).
- Về phía Đông, là đạo quan binh thứ 4 và vùng dân tộc Mường thuộc đồn cai trị Vạn Yên (Sơn La).
- Về phíaNam, là tỉnh Chợ Bờ (tức Hòa Bình).
3/ Núi non:
Những quả núi nằm trên một phần của tỉnh Hưng Hóa hợp thành hai dãy núi (thuộc đệ nhị ký tầng) rõ rệt, ngăn cách lưu vực chính của sông Hồng với hai con sông nhánh của nó, sông Đà và sông Chảy.
Những núi ngang đó tách khỏi dải núi lớn ở biên giới phía Bắc, bao gồm một lô đồi gò, cao vừa phải, giữa sông Hồng và sông Chảy. Núi non cấu tạo bằng sa thạch (grès) hay đá điệp văn (schiste), trên có đá cuội lẫn trong đất phù sa cổ. Chỉ thấy đá vôi ở tả ngạn sông Lô, trong những núi ngang của dãy Tam Đảo. Dãy núi đứng giữa sông Đà và sông Hồng có nhiều đỉnh cao, có đỉnh tới 800 - 1000 mét. Những khối đá ấy, với dáng dấp độc đáo, theo kỹ sư Sarran, chỉ có thể là một sự nối tiếp của hệ thống núi đá vịnh Hạ Long, hoặc nếu không dính líu trực tiếp với hệ thống đó thì cũng cùng một thời - kỳ địa chất.
Cũng theo Sarran, ở Việt Trì, ngay cửa ngõ đồng bằng hai dãy núi đá điệp văn Tam Đảo và Ba Vì nối liền với nhau đã hình thành, vào độ tan ký địa tầng (ère tertiaire), một thứ có thể gọi là cái đập chắn. Cái đập này thực sự là đã hình thành. Ngày nay ta còn nhìn thấy ở ngay Việt Trì, trước mặt Nhà giây thép (tức nhà điện), trên bờ phải sông Lô, những khối đá điệp văn pha lẫn đá phiến ma mêm (schistes gmeisicormes tendres), những khối này có thể đã bít kín sông Hồng vào độ tam ký địa tầng. Đập này có thể đã tồn tại đến gần độ tứ kỷ địa tầng, bởi vì người ta phát hiện có đất phù sa cũ ở độ cao khoảng 40 mét trên mức cao hiện nay của đồng bằng. Khi đập chắn Việt Trì vỡ, nước chảy đi, để lại những hòn đá cuội quyện trong đất phù sa cổ, làm bằng chứng cho các chất ngưng đọng trong vịnh trước kia.
Quan sát bản đồ tham mưu tỷ lệ 1/100.000, ta có thể có một ý niệm về những chỗ đất sụt ngày xưa, căn cứ vào những chỗ đất sụt hiện còn ở hai bên bờ sông, giữa Hưng Hóa và Yên Bái.
4/ Sông nước:
Ba sông chính chảy trong địa phận Hưng Hóa là sông Hồng và 2 nhánh của nó là sông Lô và sông Đà.
Sông Hồng và 2 sông nhánh thường có những cơn lũ đột ngột trong mùa mưa, nước lên nhanh chóng, có khi tới 3 mét trong vòng 24 giờ. Mặt nước sông lúc cạn so với mặt nước sông lúc cao nhất chênh tới 8 mét. Khi chảy đến chỗ thung lũng mở rộng của nó, sông Hồng thường hay đổi giòng, đôi khi gây ra những quãng lở thấm vào bờ tới 1km, đồng thời đem xuống hạ lưu một phần đất cát mà nó cuốn theo, những đất bồi đó tạo nên những bãi rộng, nhiều khi quá 10 hec ta.
Do đó, việc giao thông trên sông gặp khó khăn thường xuyên. Luồng lạch thay đổi luôn trong năm, nên đến mùa đông tầu thủy cũng như thuyền buồm thường hay mắc cạn.
Có rất nhiều nhánh của sông Hồng, sông Lô và sông Đà; tất cả chảy qua một hệ thống nhằng nhịt những thung lũng. Về mùa mưa, chúng trở nên những dòng lũ hung hãn; nhưng trong suốt mùa đông, chúng trở lại là những con suối bình thường. Một vài sông nhỏ đó có một lưu lượng thường xuyên tạm đủ, thuyền nhỏ và bè tre hay bè gỗ có thể đi lại quanh năm, không gặp nhiều khó khăn, cũng như không bị chậm trễ quá đáng.
Những chi lưu chính của sông Hồng ở hữu ngạn là:
a) Sông Bứa, bắt nguồn từ vùng dân tộc Mường, chảy qua Đồn Vàng thị trấn một đồn cai trị, rồi đổ vào sông Cái, gần làng Thu Mỹ. Có thể đi bè trên sông Bứa được một số thời gian trong năm.
b) Ngòi Giần, chảy từ núi Đôi Than xuống và đổ vào sông Hồng, gần làng Tăng Xá.
c) Ngòi Lao, phát nguyên từ Nghĩa Lộ (đạo quan binh thứ tư) nhập vào sông Hồng gần làng Bằng Giã.
Sông Lô chảy giữa hai bờ và trên một nền nhiều đá, nên dòng sông không hay thay đổi như sông Hồng. Nhưng giao thông trên sông ở đây khá nguy hiểm, do lòng sông có nhiều đá ngầm, thuyền buồm và thuyền của Chính phủ bảo hộ đã nhiều lần đâm phải. Năm 1892, một chiếc tàu của hãng vận tải thủy tên là Lao Kai, trong khi ngược giòng sông đã đâm vào một mỏm đá ở quãng giữa Dịa và Hòa mục, chìm nghỉm cả người lẫn của. Nhiều người đã chết đuối (Thứ tư 20-4, hồi 8 giờ rưỡi tối, chiếc tàu Lao Kai chìm sâu 10m, cách Bình ca 500m. Trong số những người chết đuối có: bà Gođart (Hà Nội), quan ba Bonnet (pháo thủ hải quân), ông Laraillet chánh cấm Lao Kai; các đội tây Bonnet và Metz, 13 lính lê dương và nhiều người bản xứ).
Mặt khác, do những gềnh đá (Ông Sarran, trong công trình nghiên cứu đáng chú ý về sông Hồng cho rằng sự hình thành những cái thác ấy là do những lớp đá vân ban (couches) đùn lên, và khi lên đến mặt đất lại kéo theo những khối đá vôi lên) mà ta thường gặp trên dòng chảy của nó quãng bên trên Tuyên Quang, sông Lô ít thích hợp cho việc đi lại bằng tàu thủy. Từ chỗ này trở lên, mọi sự đi lại đều dùng thuyền bè của người bản xứ.
Cần nêu lên một trạng thái đặc biệt chưa có ai đưa ra giải thích nào có thể thừa thận được. Ở Việt Trì, quãng sông Lô chảy vào sông Hồng, có hai ba chỗ đáy sâu tới 30 mét; quanh những chỗ ấy, hàng năm người ta thường đánh được một số cá lờn bơn, giống hệt cá lờn bơn ngoài biển. Sự việc này càng hiếm có, khi mà ảnh hưởng của nước triều không thể nào lan tới một điểm cao hơn mặt bể 40 mét. Có lẽ một cuộc nghiên cứu sâu hơn nữa của các nhà địa chất và thủy lô học về cái đập chắn Việt Trì đã nói ở trên có thể đem lại một vài tia sáng về hiện tượng lạ kỳ này.
Sông Lô chảy qua Hưng Hóa trên một quãng dài khoảng 80km. Nhánh chính của nó trên địa phận Hưng Hóa là sông Chảy. Con sông hung dữ trong mùa mưa lũ này, có lưu lượng vừa phải trong mùa khi thuyền bè bản xứ có thể ngược tới Lục an châu. Sông Chảy phát nguyên trong dãy núi Hoàng tư phố, chảy qua Phố Ràng (đồn lính bảo an), Lục an châu (thị trấn một khu vực quân sự), Đồng lao (đồn lính người Au), Phủ Yên Bình và đổ vào sông Lô ở Phủ Đoan.
Sông Đà, gọi là sông Đen, do màu nước phản ánh màu đá lởm chởm hai bên bờ và do mặt nước đổi khi phủ từng mảng thực vật dày có mầu tối xẫm. Sông Đà chảy qua vùng dân tộc Mường (tỉnh Chợ bờ) vòng quanh chân núi Ba vì và đổ vào sông Hồng phía dưới Trung Hà, sau khi đã chảy 30 – 40 km trên địa phận Hưng Hóa. Dòng sông Đà giống dòng sông Hồng, đổi chỗ luôn. Nước sông lắm phù sa và bị người bản xứ cho là rất độc.
5/ Khí hậu:
Khí hậu tỉnh Hưng Hóa gần giống khí hậu đồng bằng. Như ở một vài nơi, đặc biệt ở Đông dang, nhiệt độ thấp hơn Hà Nội vài ba độ. Mưa rào nhiều hơn đồng bằng. Trước khi mưa rào, khí hậu tụt xuống và có nhiều sấm sét kích động và làm mỏi mệt thần kinh. Trong nhiều thung lũng và một phần dân chúng ở thành làng xóm, không khí lưu thông không mạnh, mặt đất ẩm ướt, khi mặt trời chiếu nắng thường bốc nhiều chướng khí; chướng khí này còn tăng theo do ở gần rừng rậm, trong đó có một lớp hợp chất thực vật và động vật dày đang phân hủy.
Mặc dù thế, ta có thể nói - trừ một vài nơi - khí hậu Hưng Hóa không độc, một người Au, nếu đặt ở vào một địa điểm thoáng khí, cách rừng rậm đúng mức và nếu giữ gìn vệ sinh thì có thể sống bình thường.
Như ở đồng bằng, hàn thử biểu đặt ở những nơi có người ở không mấy khi xuống dưới 10 độ. Trên các đỉnh núi, nơi mà người bản xứ (trừ người Mán) không bao giờ ở, hàn thử biểu có thể xuống tới 5 hay 4 độ. Thời kỳ nóng nực nhất, hàn thử biểu lên tới 37 độ và trong một số thung lũng chật hẹp, còn lên tới 40 độ.
Các mùa gần giống các nơi khác ở đồng bằng sông Hồng; nghĩa là, từ tháng 10 đến tháng 2 là thời kỳ giá rét và khô hanh, nhiều khi suốt 50 - 60 ngày không mưa, đất khô hạn và gia súc thiếu cỏ ăn. Đến tháng 2 bắt đầu mưa phùn. Khoảng thời gian ẩm ướt này mỗi năm một khác, có năm dài 40 - 50 ngày, có năm ngắn hơn nhiều. Khoảng 15-4 trời bắt đầu nóng nực. Và giữa tháng 5 mưa rào gần như ngày nào cũng có và kéo dài đến giữa tháng 9. Các dòng sông đầy nước. Tất cả các cánh đồng đều bị ngập và giao thông đường bộ gặp khó khăn. Từ 15-9 đến 15-10 mưa rào ít đi và khí hậu dịu dần.
Bên trên có nói: Hưng Hóa có một vài vùng khí hậu xấu. Những vùng này cách xa các sông lớn, trong những thung lũng chật hẹp, rậm rạp. Phải kể riêng một vài nơi thuộc các huyện Thanh Ba, Phù Ninh và Đoan Hùng, xa sông Hồng hay sông Lô và có nhiều rừng rậm. Trong những nơi ấy, ngay người bản xứ cũng bị sốt rét rừng, người xanh xao, yếu ớt. Trong một số làng, người lớn hay mắc bệnh sùi da voi; trường hợp biến chứng (degénéres - sence) cũng thấy nhiều.
Đấy không những là hậu quả của tình trạng ăn ở tồi tàn mà còn là bằng chứng cho thấy người kinh không chịu thủy thổ miền núi, ở đó thực ra họ cư trú một cách miễn cưỡng. Chứng cớ còn ở thực tế là: một trong vài vùng người Mường, chính nơi mà người Kinh cho là độc, thì người bản địa thuộc dân tộc ít người lại sinh sống dễ dàng và thân hình vạm vỡ hơn người ở đồng bằng. Phải thấy trong thực tế này là, người Mường đã quen thủy thổ từ lâu đời và có tính năng di truyền chống lại được các độc tố ở những nơi mà họ định cư.
Tóm lại, một người Au có thể ở bất cứ một nơi nào, miễn là chọn nơi ở cẩn thận và giữ vệ sinh cơ bản một cách thường xuyên.
PHẦN THỨ HAI = LỊCH SỬ CHINH PHỤC
Do địa hình hiểm trở, do tiếp giáp với các tỉnh biên giới, nơi mà trong nhiều năm, những toán hoa kiều tàn quân của vụ nổi loạn Thái Bình còn làm chủ, tỉnh Hưng Hóa hình như là một hậu cứ dành sẵn cho quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc và những toán phiến loạn bản xứ đi theo tướng này.
Đúng như vậy, sau khi tỉnh Sơn Tây rơi vào tay chúng ta (tức bọn xâm lược Pháp, LND), tháng 12 - 1883, nhiều dư đảng của Lưu Vĩnh Phúc trọn tránh ở đây, trong khi những toán khác chạy sang vùng Tam Đảo, vừa tìm đường chốn vừa giết hại dân chúng.
Hoàng Kế Viêm, viên Tổng đốc triều đình Huế đặc phái bên cạnh Lưu Vĩnh Phúc nhằm cung cấp nhân vật lực tại chỗ, cũng chọn Hưng Hóa làm nơi thủ hiểm. Cùng với quân Cờ đen, ông ta đóng trong tòa thành của tỉnh lỵ và tổ chức cuộc kháng chiến; nhưng mọi cố gắng của họ đều vô ích. Cả người Hoa và người Việt đều nản chí trước chiến thắng chói lọi nhưng đẫm máu hạ thành Sơn Tây của chúng ta.
Ngày 12-4-1884, sau khi đã dội trái phá đốt cháy thành Hưng Hóa, quân đội Pháp từ những đỉnh đồi bên hữu ngạn sông Đà ở gần cửa sông, vượt sông, chia thành hai cánh tấn công, tiến sát đến tòa thành mà họ thấy đã bỏ không. Nhân chiến công này tướng tư lệnh cuộc hành quân đã gửi cho quân đội nhật lệnh sau đây:
Nhật lệnh số 61
Sĩ quan, hạ sĩ quan, bộ binh và thủy binh,
Một tháng, tính từng ngày, sau khi hạ thành Bắc Ninh, các anh đã vào thành Hưng Hóa.
Đây là một chiến thắng mới rất xuất sắc mà Chính phủ Cộng hòa cảm ơn các anh.
Nếu tôi lấy làm sung sướng là đã không lạm dụng sương máu các anh, thì trái lại, các anh đã đem hết dũng cảm vào biết bao trường hợp mà tôi trông cậy vào các anh; và tôi sung sướng nói với các anh rằng, nếu các anh đã mở rộng thuộc địa của chúng ta thêm một tỉnh giầu đẹp, thì một lần nữa các anh đã chứng minh rằng nước Pháp bao giờ cũng có nhiều bộ binh và thủy binh dũng cảm sôi nổi tinh thần yêu nước trong sáng nhất.
Tại bản doanh, ở Hưng Hóa, ngày 12-4-1884 - Millot
Hoàng Kế Viêm ẩn náu ở Đồn vàng, vùng giáp ranh xứ Mường mà ông ta đã tiến công hô hào nổi dậy. Ít lâu sau, ông ta thất vọng, trốn về Trung kỳ, để lại công việc chống đối cho Bố Giáp, một viên quan tỉnh Sơn Tây cũ, Bố Giáp lui về vùng núi giữa sông Đà và sông Hồng. Một số quân Cờ đen đi theo ông ta, còn số khác chạy lên Lao Cai.
Thời gian những sự kiện trên diễn biến ở hữu ngạn sông Hồng, một cánh quân Pháp được tung ra nhằm đuổi theo quân Cờ đen đang chạy về phía thượng lưu sông Lô. Sau một trận chiến đấu ác liệt, quân ta chiếm được thành Tuyên Quang, để lại một đơn vị đóng giữ, còn thì trở lại vùng đồng bằng. Ít lâu sau quân Cờ đen ở VânNamtiếp viện sang, quay lại hãm thành Tuyên Quang. Tướng Brière de lIsleđượclệnh trở lại giải vây đã bắt buộc phải giao chiến một trận đẫm máu ở Hòa mục trước khi phá được vòng vây Tướng Brière de lIsleđếnHòa mục ngày 1-3 và bắt đầu tấn công những vị trí Cờ đen đầu tiên ngày 3-3.
“Những lính khố đỏ -Parisghi lại - dũng cảm trườn lên trong cỏ rậm, nhưng đến cách tường thành 60 mét, họ bị một loạt đạn làm tử thương 1/3 đại đội. Những bộ binh người Au giê ri đến tiếp viện; song những người Hoa không lùi. Thủy binh lục chiến dàn hàng xông lên, chiếm hết điểm này sang điểm khác, dùng lưỡi lê đâm chết lính của Lưu Vĩnh Phúc, họ chống cự khá kiên cường.”
Đến 7 giờ, Tướng tư lệnh hành quân đình chỉ cuộc tiến công; chúng ta đã chiếm được tất cả các chiến hào, trừ một chiếc lô cốt.
Đoạn ghi chép dưới đây của một sĩ quan trực tiếp chứng kiến cuộc chiến đấu, do Bouinais dẫn lại, có thể cho chúng ta một ý niệm về cường độ của cuộc chiến đấu và giá trị của quân đội chúng ta:
“Không có cửa mở, không có công binh, không có dụng cụ gì, sĩ quan dẫn đầu quân lính trèo lên tường thành và cố gắng chiếm lấy bức tường bất hạnh đó. Lính Cờ đen bắn thẳng, cách 5 mét vào chính diện của chúng ta, cách 50 mét vào sườn trái và 150 mét vào sườn phải”.
Một bài ca hùng tráng! Và than ôi, một sự hy sinh quá đắt! O đấy, lần lượt ngã xuống quan ba Bourguignon, 8 ngày sau thì chết; Varsaud, bị thương vào đầu; Moissenet, chết vì trúng đạn vào bụng; quan ba Tailland, tử thương; guerin, bị thương vào mạng mỡ; Mondon và quan ba Selles, bị thương một người vào sườn, một người vào đầu. La garde và Le Heiget, quan hai trong đơn vị quan ba Salles, bị thương ngay từ đầu, chuẩn úy của đại đội 34, Lacour, bị chết ngay tức khắc, và Labettour, chuẩn úy của Đại đội 25, bị tử thương. Chưa đầy nửa giờ, 164 người trong 320 người đã ngã ngửa trên mặt thành.
Những lính thủy quân lục chiến của chúng ta thật đáng phục! Họ lao lên mặt tường thành, hàng tá ngã gục hoặc bị hỏa pháo ném tay của lính Hoa đốt cháy; họ lui lại một vài bước dập lửa rồi lại xông lên đánh giáp lá cà: cuộc xung phong lặp đi lặp lại như vậy khoảng 20 lần. Cuối cùng, bức tường thành phải nhường bước và Fruystatter, quan một đại đội 29, vào thành đầu tiên.
Thế là chấm dứt, song chúng ta phải trả giá đắt.
Ngày 3-3 hồi 6h sáng, lô cốt cuối cùng bị hạ, và cùng ngày ấy, hồi 10h rưỡi, tướng Briere de l’Isle đã ôm hôn quan tư Domine anh hùng đứng đợi ngài ở cổng thành Tuyên Quang với các chiến hữu anh dũng của ông ta.
Đạo quân này thiệt ở Hòa mục: 76 người chết, trong có 6 sĩ quan; 408 người bị thương, trong có 24 sĩ quan.
Đối phương đã tập trung 15.000 quân sau những chiến lũy của họ”.
Ở địa điểm xảy ra trận đánh đáng ghi nhớ ấy trên đất tỉnh Hưng Hóa, ta đã dựng một đài tưởng niệm mà hàng năm binh lính đóng ở đồn Tuyên Quang thường đến thăm viếng.
Sau khi thất bại, những toán lính VânNamtrở về Tàu; nhưng quân Cờ đen vẫn ở lại đất Bắc kỳ. Còn phải nhiều trận nữa, nhất là trận Thanh Mai ở vùng hạ lưu sông Lô, mới dẹp được hết những đám tàn binh này.
Nhưng chính ra trên hữu ngạn sông Hồng, chúng ta mới gặp nhiều sự chống đối. Được quân Cờ đen giúp, lại được một người thổ dân có thế lực tên là Đề Kiều đi theo, Bố Giáp đã chiến đấu ngoan cường trong nhiều năm. Tiến hành một cuộc chiến đấu du kích ông ta đã buộc quân ta phải luôn luôn đề phòng và đã gây cho ta nhiều tổn thất nặng nề (trận Van Lam, trận Đại lịch…).
Sau một lần bị thương nặng, Bố Giáp thủ tiêu chiến đấu và mất tăm tích, để lại công việc cho Đề Kiều. Công cuộc bình định có chiều hướng tiến triển tốt thì người Mường vùng sông Đà bị một số thượng thư của vua Hàm Nghi xúi dục, lại nổi dậy làm chỗ dựa cho những cuộc nổi loạn ở Thanh Hóa và mặt khác cho đồng đảng của Đề Kiều. Một người Việt, tên là Đốc Ngữ nổi dậy ở vùng Chợ Bờ. Ta đã phái nhiều đạo quân tiến đánh Đốc Ngữ nhưng chưa làm giảm được thanh thế ông ta. Mãi đến năm 1892 những người nổi dậy về sự bất bình về sự cẩu thả và tàn bạo của ông ta đã giết chết ông ta trong một trận phục kích.
Vụ này kéo theo nhiều cuộc quy hàng và nộp khí giới cho ta. Và sau khi dựng lại chế độ quan Lang (mà trước đây chính sách cai trị vụng về của chính phủ Nam Triều đã thay bằng các quan người Việt), thì dân Mường cũng hàng phục và từ đó trở nên trung thành.
Đề Kiều có thế chỉ tiếp tục chiến đấu được vài tháng nữa rồi theo lời dụ của Tuần phủ Hưng Hóa, cũng quyết định đầu hàng(1893).
Bên cạnh những người nổi loạn chống lại quân Pháp, nhiều bọn cướp lợi dụng tình hình rối ren, rủ nhau đi tàn phá các vùng và làm khó khăn thêm cho chúng ta. Sau khi những người theo Hàm Nghi đầu hàng, những toán cướp không thể trốn tránh được lâu. Số đông tướng cướp bị bắt hoặc bị giết, một số đầu hàng.
Năm 1894, chúng ta làm chủ địa phương, phải mất mười năm mới đạt được kết quả này, bao nhiêu cố gắng và biết bao hy sinh to lớn. Từ năm nay toàn tỉnh đã trở lại hoàn toàn yên ổn. Tình hình hiện tại, về phương diện chính trị, rất đáng hài lòng.
PHẦN THỨ BA = CƠ CẤU XÃ HỘI – TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ VÀ CAI TRỊ
A/ Cơ cấu xã hội:
1- Dân tộc 2- Phong tục:
Ngoài người Việt chiếm 9/10 dân số toàn tỉnh, một số miền núi có các bộ tộc thuộc dân tộc và phong tục rất khác nhau. Các bộ tộc mà ta gặp ở Hưng Hóa thuộc về dân tộc Mường và Mán.
Mường.
Người Mường ở trong các dãy núi thuộc sông Đà và sông Hồng. Họ là phần dân chúng quan trọng nhất của 16 châu ngày trước thuộc tỉnh Hưng Hóa. Cách đây một vài năm, người ta đã tách ra 14 châu để lập các đơn vị cai trị đặc biệt phụ thuộc đạo quan binh thứ tư. Hai châu còn lại thuộc tỉnh Hưng Hóa là Thanh Sơn và Yên Lập.
Việc ở gần người Kinh đã làm cho người Mường giảm một số đặc tính và những phong tục cha truyền con nối của họ. Nhưng giữa họ và người Kinh ta cũng thấy có nhiều điểm khác nhau quan trọng, vừa trong cơ cấu xã hội vừa trong cách ăn mặc.
Người Mường họp thành những bộ tộc có một cuộc sống độc lập. Đứng đầu bộ tộc có một tộc trưởng do các quan lang (một kiểu lãnh chúa phong kiến cha truyền con nối) bầu ra. Thường thường, quan chi châu được chọn trong một gia đình giàu có hoặc thế lực nhất vùng. Đã có một thời kỳ, Chính phủ Nam triều muốn cai trị người Mường bằng cách phái đến cho họ những người đứng đầu do nhà Vua chỉ định. Đấy là một hành động sai lầm đã dẫn tới nhiều sự rối ren nghiêm trọng. Từ năm 1891, cách cai trị cũ đã được lập lại và xứ Mường trở nên yên ổn hoàn toàn.
Trong tỉnh Hưng Hóa, có 15-20.000 người Mường.
Mán.
Người Mán ở trên núi cao và trong rừng. Như người Mường người cầm đầu của họ chọn ở gia đình nào thì người cầm đầu kế tiếp cũng vẫn chọn trong gia đình ấy. Trong người Mán, có 7 bộ tộc khác nhau phân biệt chủ yếu trong cách ăn mặc; một số y phục có thêu thùa và gắn đồ trang sức bằng đồng và bằng bạc, trông khá đẹp.
Số người Mán trong tỉnh không quá 1200. Họ ở xen với người Mường và phủ Đoan Hùng, tiếp giáp với Tuyên Quang.
3- Tôn giáo:
Có 240.000 người theo đạo Phật và khoảng 10.000 người theo đạo Thiên chúa. Sự nghiệp truyền giáo chưa được đẩy mạnh; mấy năm gần đây trong tỉnh mới mở Tòa Giám mục. Những lần rửa tội theo đạo, tuy chưa nhiều, song đã có bước đi liên tục.
4- Gia đình, 5- Làng mạc, 6- Sở hữu:
Về những cơ cấu xã hội này, tỉnh Hưng Hóa không có đặc điểm gì khác so với các tỉnh, chúng ta chưa cần đi sâu tìm hiểu vội.
B/ Tổ chức chính trị và cai trị:
1- Các đơn vị cai trị:
Trước cuộc chiếm đóng của người Pháp, tỉnh Hưng Hóa là một tỉnh quan trọng bậc hai; đứng đầu tỉnh có quan Tuần phủ Hưng Hóa lại dưới quyền Tổng đốc Sơn Tây, chức tước chính thức là Tổng đốc Sơn – Hưng – Tuyên (lấy 3 tiếng đầu của 3 tỉnh Sơn Tây; Hưng Hóa; Tuyên Quang mà ông ta cai trị ghép lại).
Việc làm đầu tiên của chúng ta là chia nhỏ những tỉnh quá rộng lớn ấy. Biện pháp này là cần thiết, làm cho công việc bình định dễ dàng hơn, áp dụng các luật pháp và một nền cai trị linh hoạt hơn, công bằng hơn.
Vì vậy tỉnh Hưng Hóa được quyết định trở thành một tỉnh độc lập. Nghị định ngày 9-6-1890 quy định:
Điều 1 - Tỉnh Sơn Tây nhượng cho tỉnh Hưng Hóa phần đất huyện Bất Bạt, trên tả ngạn sông Đà, như vậy là 4 tổng gồm 30 làng và phần đất huyện Hạ Hòa, trên hữu ngạn sông Hồng, như vậy là 4 tổng gồm 20 làng.
Điều 2 - Các tổng và các làng tách ra được phân bố lại như sau:
1- Toàn bộ tổng Hạ Bì gồm 10 làng: Hạ Bì, Đào Xá, Quang Bi, Thượng Thị, Quang Bi - Đông Thị, Võng La, Ho Tru, Mai Miếu, Tháp, Xuân Dương, Bi Châu Thôn, La Hào, sát nhập vào huyện Tam Nông;
2- Bốn làng Đoan Thượng, Đoan Hạ, Đồng Luận, Hoàng Xá, thuộc tổng Lương Khê cũ, sát nhập vào huyện Thanh Thủy và họp thành tổng Hoàng Xá;
3- Chín làng La phù, Phương Viên, Viên Lãm, Bảo Yên, Động Lâm, Thượng Lộc, Tang Ma, Đa Nghệ và Thạch Hãm, tổng La Phù sát nhập vào huyện Thanh Thủy để thành lập tổng La Phù;
4- Bảy làng Võ Song, Yên Dục, Phượng Mao, Lăng Xương, Yến Mao, Tinh Nhuệ, Miếu nha thôn, tổng Tinh Nhuệ, sát nhập vào huyện Thanh Sơn để thành lập tổng Tinh Nhuệ
Điều 3 - Các tổng và các làng nằm trong vùng thứ hai nhượng cho tỉnh Hưng Hóa phải phân bổ như sau:
1-Các tổng Văn Lang, Xuân An và Động Lâm, huyện Hạ Hòa cắt toàn bộ cho tỉnh Hưng Hóa, đều sát nhập vào huyện Cẩm Khê.
2- Các làng Hoa Quan và Đức Quân, thuộc tổng Đoan Thượng, nhưng nằm trên hữu ngạn sông Hồng, đều cũng sát nhập vào huyện Cẩm Khê, tỉnh Hưng Hóa.
Điều 4 - Do những thay đổi trên, trong tỉnh Sơn Tây cũng tiến hành điều chỉnh như sau:
1- Tổng Phú Hữu chuyển từ huyện Tiên Phong sang huyện Bất Bạt.
2- Huyện Thanh Ba nhượng cho huyện Hạ Hòa các tổng Vĩnh Chân và An Kỳ; đền bù lại, huyện Thanh Ba lấy các tổng Hạ Mạo và Yên Lành của huyện Sơn Vi
3- Bốn làng Lương Khê, Thạc Xa, Đan Thê và Thủ Pháp, nằm trên hữu ngạn sông Đà, những làng còn lại của 4 tổng thuộc huyện Bất Bạt, sát nhập toàn bộ hoặc một phần vào tỉnh Hưng Hóa từ nay hợp thành tổng Thủ Pháp (tỉnh Sơn Tây).
Điều 5 - Làng Đoan thượng sát nhập vào tỉnh Hưng Hóa để lại cho tỉnh Sơn Tây 10 mẫu ruộng hoặc đất khác, với 3 ngôi chùa ở hữu ngạn sông Đà trị giá khoảng 5.000 quan tiền. Đền bù lại làng này sẽ được cấp lại một lô đất mới để vỡ hoang hoặc được giảm thu (degrevement) trong một thời hạn nhất định.
Điều 6 - Làng Vô Song chuyển sang tỉnh Hưng Hóa, vì cũng nhượng lại cho tỉnh Sơn Tây một số ruộng ở tả ngạn sông Đà nên cũng được đền bù lại như trên.
Điều 7 - Huyện lỵ Hạ Hòa dời về Minh Hạc.
Sự cai trị tỉnh Hưng Hóa cũng giống các tỉnh đồng hạng khác. Quan lại bản xứ gồm có một quan Tuần phủ coi sóc việc cai trị chung, một quan Án sát coi sóc việc Tư pháp. Những viên quan này ở tỉnh lỵ. Đứng đầu các hạt dưới tỉnh là các tri phủ và tri huyện. Trước đây, ngoài hạt cai trị trực tiếp của mình, tri phủ còn có một số huyện phụ thuộc. Ngày nay, tình trạng đó đã bãi bỏ nhằm tập trung và đơn giản hóa việc cai trị. Quyền hạn tri phủ như tri huyện, mặc dù cấp bậc có cao hơn. Thông thường Phủ quan trọng hơn huyện, tri phủ và tri huyện giải quyết tất cả công việc hành chính. Họ cũng phải biết các công việc tư pháp; nếu là việc hộ thì được xét xử không hạn chế, nếu là việc hình có tầm quan trọng nào đó thì chuyển lên An sát.
Các quan tỉnh, quan phủ, quan huyện đều có phòng giấy gồm một số nho lại thuộc quyền.
Từ vài năm nay, đi đôi với việc chia nhỏ các tỉnh, khuynh hướng của Chính phủ Pháp hình như muốn giảm bớt mà cũng có thể là bãi bỏ hẳn các quan tỉnh.
Diện tích các tỉnh rất khác nhau. Hưng Hóa, một tỉnh chỉ có 25 vạn dân lại rộng gấp 4,5 lần Thái Bình, một tỉnh 70 vạn dân.
Tầm quan trọng của các phủ và huyện còn rất xa mới như nhau: huyện đông dân nhất có 49 làng, huyện bé nhất chỉ có 28 làng. Dưới phủ và huyện, có các chánh tổng. Họ không còn nhận cấp bậc và chức vụ của Chính phủ phong xuống nữa. Trái lại, họ được bầu lên từ các làng do họ thay mặt và cai quản. Cử tri là các tộc biểu chính trong làng. Các tổng bao gồm một số làng to nhỏ khác nhau. Có tổng chỉ có 2 làng, trong khi các tổng khác có 8 làng, và có khi tới 10 làng. Trong các tổng lớn, chánh tổng có một hay nhiều phó tổng giúp việc; phó tổng cũng được bầu ra và được công nhận giống như chánh tổng.
Cuối cùng là lý trưởng và các tộc biểu.
Bên trên bộ máy quản lý bản xứ này là những đại diện của Chính phủ Pháp: Chánh sứ là quan đầu tỉnh; dưới quyền Chánh xứ có một Phó sứ một giám đốc kho bạc, một hay nhiều tham biện Tòa sứ và một tham – biện phụ trách kế toán.
Nhiệm vụ của Chánh sứ mới đầu giới hạn trong phạm vi kiểm soát công việc của nhà chức trách bản xứ: sau mở rộng cùng với việc củng cố chính quyền bảo hộ; đến nay, các quan lại bản xứ không đại diện cho một thứ quyền lực song song nữa, họ trở thành những người phụ thuộc chỉ hành động theo mệnh lệnh.
Từ nhiều năm nay, vẫn nhằm mục đích tăng cường hiệu lực cai trị, Chính phủ Pháp đã thành lập các đồn, mỗi đồn giao cho một Phó sứ hoặc một viên đại úy cai quản.
Trong tỉnh Hưng Hóa có ba đồn:
1- Đồn Cẩm Khê, coi sóc các huyện Cẩm Khê, Thanh Ba, Hạ Hòa
2- Đồn Vàng, coi sóc hai châu Mường Thanh Sơn và Yên Lập
3- Đồn Phủ Đoan, coi sóc hai huyện của Phủ Đoan Hùng.
20/ Tư pháp:
1) Tòa án Tây: Đối với tỉnh Hưng Hóa, cũng như đối với tất cả các tỉnh ở Đông Dương, tòa án Tây bao gồm toà án đệ nhất cấp Hà Nội và Hải Phòng và một Ban của Tòa án Sài Gòn, làm nhiệm vụ Tòa án thượng thẩm. Trong địa hạt mình, Chánh sứ làm nhiệm vụ tài phán trị an (juge de paix).
Các tòa án này xét xử tất cả những người Au, những á kiều và những người bản xứ có công việc kiện tụng với hai loại kiều dân trên, cuối cùng là xử cả những người bản xứ nào cư trú ở hai thành phố Hà Nội, Hải Phòng.
2) Tòa án Pháp Nam: Mỗi tỉnh có một tòa án này. Tòa án này gồm có Công sứ là chánh án và các quan tỉnh người bản xứ làm thẩm phán. Tòa án Pháp Nam xử tất cả các khinh tội và trọng tội mang tính chất chính trị. Tòa án Pháp Nam rất được việc trong thời kỳ loạn lạc. Bấy giờ, hiếm có trường hợp Tòa án này hoạt động. Các hình phạt áp dụng ở Tòa án này đều do bộ luật bản xứ quy định.
3) Tòa Nam án: Tòa Nam án gồm các quan tỉnh người bản xứ... và xét xử tất cả các vụ án về hình hoặc về hộ giữa các người bản xứ trừ những người cư trú ở Hà Nội và Hải Phòng. Tuy không tham gia các tòa án này. Công sứ vẫn theo dõi các cuộc thẩm vấn và kiểm soát các hoạt động của Tòa án. Án sát chịu trách nhiệm công việc dự thẩm.
30/ THUẾ KHÓA:
Thêm vào các thứ thuế trực thu (thuế đinh và thuế điền) của chế độ thuế khóa bản xứ, Chính phủ Pháp còn đặt ra các thứ thuế gián thu; trước đây mới đánh vào các tiệm thuốc phiện và cây quế. Bây giờ đánh vào thuốc phiện, muối, rượu, diêm, đơn từ. Còn nhà đoan thì đặt ở tất cả các bến cảng. Các khoản thu về thuế đoan tạo thành nguồn thu chính của ngân sách.
Lợi tức về thuế khóa của tỉnh Hưng Hóa đã tăng tiến không ngừng từ 3 năm nay.
- Năm 1896, thu được 92.000 đồng
- 1897, = 103.000 đ
- 1898, = 126.000 đ
- 1899, = 153.000 đ