
Gác chuồng chùa Phúc Khánh (Hiền Quan)
Chùa Phúc Khánh được dựng theo kiến trúc “Nội công ngoại quốc” gồm có: Gác chuông - Tiền đường - Thượng điện - 2 dãy hành lang và Nhà Tổ. Qua sự tích và truyền thuyết thì ngôi chùa này được xây dựng từ những năm đầu công nguyên, theo một số cụ cao niên trong làng kể lại là chùa được xây dựng từ thời Bắc thuộc. Song việc tìm kiếm niên đại chính xác của ngôi chùa quả là một điều khó khăn.
Nhưng một điều cần phải ghi nhận rằng, trải qua những tháng ngày của lịch sử, do ảnh hưởng của chiến tranh, khí hậu khắc nghiệt tác động tới làm ảnh hưởng rất lớn tới kiến trúc của chùa. Hiện chùa Phúc Khánh đã trải qua nhiều lần tu sửa do đó có sự thay đổi, pha tạp trong kiến trúc.
Trên Thượng lương vì kèo gian giữa ở bên phải của Tiền đường có ghi: Thành Thái Bính Thân lương thì thụ trụ Thượng lương Đại cát”.
Tạm dịch là: Năm Bính Thân niên hiệu Thành Thái thì dựng thượng lương này cho tới ngày nay.
Theo các cụ cao niên kể lại thì chùa Phúc Khánh (chùa Hiền Quan) đã trải qua ba lần tu sửa lớn vào các năm:
Năm 1964 sửa lại mái Tiền đường và Thượng điện.
Năm 1978 thay hoành, đảo lại ngói toàn bộ chùa.
Năm 1982 xây tường dậu bao quanh sân, sửa lại gác chuông và tô lại tượng.
Như vậy Chùa Phúc Khánh được xây dựng từ rất lâu và đã trải qua nhiều lần tu sửa nhưng phần kiến trúc còn lại tới nay là kiến trúc thuộc thời Nguyễn thế kỷ XIX. Từ ngoài nhìn vào di tích gồm có các hạng mục:
Gác chuông (hay còn gọi Cổng Tam Quan - có 3 cửa ra vào): Gác chuông được bố trí làm 2 tầng tám mái, từ dưới mặt đất bước lên một bậc thềm cao 0,30m tầng 1, gác chuông được bổ trí với 3 cửa. Một cửa chính giữa được xây hình vòm cuốn rộng 2,10m; cao 2,20m. Hai cửa bên có kích thước đều như nhau cao 1,80m; rộng 0,90m. Gác chuông được xây theo hình vuông có kích thước 6mx6m. Trên tầng hai mặt sàn được lát bằng gỗ ván và dựng cột gỗ. Cột cao 2,20m; đường kính rộng 0,35m; các đầu dư, họng cột cho đến cái nóc đều để trơn.
Một quả chuông lớn được treo trên cái nóc của gác chuông. 8 mái được lợp ngói mũi cổ trên đỉnh nóc có đắp nổi hình “Lưỡng Long chầu nguyệt”. Đôi rồng chầu vào mặt nguyệt được đắp bằng vôi vữa, rồng có đầu hơi bẹp râu dài mình có nhiều vảy, chân có bốn móng nhọn sắc đang quặp chặt lấy đỉnh nóc gác chuông, đuôi rồng hất cong lên phía trên.
Tiền đường: Tiền đường gồm 5 gian dài 17,50m; rộng 7,80m với 6 hàng gian cột và hai dĩ trái, cấu tạo kiến trúc bên trong Tiền đường thật phù hợp với dáng vẻ uy nghi ở bên ngoài của ngôi chùa. 6 cột hiên (cao 2m40, đường kính 0m25) làm nhiệm vụ nâng đỡ mái chùa cùng với 2 hàng sáu gian cột cái thẳng tắp (cao 1m30, đường kính 0,35m) cùng với một hệ thống các xà ngang, xà dọc tạo nên một bộ khung vững chắc cho chùa.
Thượng điện: Thượng điện gồm có 3 gian được nối liền với gian chính giữa của Tiền đường, trong Thượng điện được bố trí 2 hàng cột, cột cao 4m30, đường kính 0,35m. Kiến trúc được dựng theo lối chồng bồn kẻ truyền tạo nên một bộ khung khỏe khoắn, vẵng chắc. Ở vì kèo số 1 gian đầu của Thượng điện ở hai bên cốn nách và trên dép hoành giáp với sải nóc có ván bưng hình tam giác vuông và tam giác cân. Ba ván bưng ở cốn nách và trên Thượng lương được trang trí các họa tiết khá tỷ mỷ với kỹ thuật chạm nổi các đề tài quen thuộc thường thấy ở các công trình kiến trúc gắn với tôn giáo như “Lưỡng Long chầu nguyệt”, rồng với những làn mây, sóng nước … ở mặt bên trong của ván bưng để trơn được bào nhẵn đánh bóng.
Hành lang: Hai dãy hành lang được bố trí chạy dọc hai bên Thượng điện, từ Thượng điện bước qua một cửa nhỏ ở hai bên Tả Hữu là hai dãy hành lang. Nhà hành lang dài 13m80, rộng 2m với 5 gian 6 hàng cột được làm kiểu bán mái, 6 hàng cột cao 2m15, đường kính 0m20 có nhiệm vụ nâng đỡ mái hành lang. Trước cửa hai dãy hành lang là những hàng cây ăn quả xum xuê xanh tươi tạo nên một khung cảnh râm mát, tĩnh lặng hết sức cổ kính, thật là một phong cảnh hữu tình đúng với tâm trạng của nhân dân và khách thập phương khi nghỉ ngơi ở hành lang trong dịp vào viếng thăm chùa.
Nhà Tổ: Qua hai dãy hành lang là tới nhà Tổ với một diện tích khá rộng khoảng trên 70m2 trong đó chiều dài của nhà Tổ là 16m20 chiều rộng là 4m10 cũng như ở chùa chính nhà Tổ được dựng trên nền cấp đất cao hơn sân 0m30.
Nhà Tổ được bố trí làm hai phần nơi thờ tự những người có công trông nom tu tạo nhà chùa và là nơi ở của cụ từ để trông coi hương khói trong chùa với chức năng như vậy nên nhà tổ được kiến thiết hết sức đơn giản chứ không cầu kỳ như ở chùa chính. Phần mái được làm theo kiểu quá giang gối tường với bộ khung hoành chắc chắn mái lợp ngói Sông cầu. Tường xây cao 3m được bố trí 5 gian, cửa có kích thước bằng nhau cao 1m90 rộng 1m50 với kiến trúc như vậy đã tạo nên một khung cảnh hết sức thoáng đãng và thông thái, chứ không âm u ảm đạm như một số ngôi chùa khác.
Nhìn chung Chùa Phúc Khánh từ gác chuông tới Tiền đường, Thượng điện, đều được làm bằng loại gỗ tốt với kích thước chuẩn mực được tính toán kỹ lưỡng, cho tượng cột cái cột quân ở từng vị trí khác nhau cùng với hệ thống các xà ngang xà dọc được ghép nối với nhau bằng mộng đuôi én nên làm cho các bộ phận kiến trúc ăn nhập với nhau một cách chặt chẽ tạo nên bộ khung chắc khỏe để nâng đỡ phần mái của chùa. Với kiến trúc “Nội công ngoại quốc” như vậy Chùa Phúc Khánh hết sức rộng rãi thoáng mát, tạo nên một cơ ngơi bề thế đồ sộ nổi bật giữa vùng quê làng Hiền.
Nghệ thuật tạc tượng: Cùng với kiến trúc đồ sộ và nghệ thuật chạm trổ được trang trí trong phần kiến trúc là hệ thống các tượng được tạo dáng hài hòa tạo nên vẻ đẹp hoàn hảo tượng của chùa Phúc Khánh, có 26 pho tượng phật với chất liệu làm bằng gỗ và đất với nghệ thuật điêu luyện, mỗi pho tượng mang một dáng vẻ và chứa đựng một sự tích khác nhau.
Chùa Phúc Khánh có các tượng, ngoài Tiền đường gồm: Tượng Đức ông, Tượng Trừng ác, Tượng Khuyến thiện, Tượng Thánh tăng, Tượng Quan vũ; Tòa Thượng điện bày theo từng cấp như sau: Tòa trên cùng là Tượng Tam thế; tòa thứ hai là từ trên xuống là Tượng Di Đà Tam tôn (hay Tây phương Tam thánh); tòa thứ 3 từ trên xuống là 3 pho Tượng được tạo để diễn tả quá trình tu luyện của Đức phật Thích ca Mâu Ni ở ba thời kỳ, bên trái là Tượng Tuyết Sơn, ngồi giữa là Tượng Thích ca sau khi tu luyện ở núi Tuyết không thành đã tìm ra được lối tu hành đắc đạo; tòa thứ tư ở chính giữa là Ngọc Hoàng, chếch về phía sau hai bên Tượng Ngọc Hoàng là hai vị Bồ Tát; tòa thứ năm là Tòa Cửu Long hai bên cạnh là hai pho tượng Phạm Thiên và Đế Thích.
Chùa Phúc Khánh ngoài phần thờ Phật là chính ở Tiền đường của chùa còn có một Cung thờ bà Thiều Hoa Công Chúa một nhân vật lịch sử có thật mà theo sự tích lưu truyền thì trước khi tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thì bà Thiều Hoa đã từng tu niệm ở chùa này.